Honda
The Power of Dreams | |
Trụ sở ở Minato, Tokyo | |
Tên bản ngữ | 本田技研工業株式会社 |
---|---|
Tên phiên âm | Honda Giken Kōgyō Kabushiki-gaisha |
Loại hình | Đại chúng |
Mã niêm yết | |
Ngành nghề | Chế tạo |
Thành lập | Hamamatsu, Nhật Bản (Tháng 10 năm 1946 , kết hợp 24 tháng 9 năm 1948 ) |
Người sáng lập | Honda Soichiro |
Trụ sở chính | Minato, Tokyo, Nhật Bản |
Khu vực hoạt động | Toàn thế giới |
Thành viên chủ chốt |
|
Sản phẩm | |
Doanh thu | 14,95 nghìn tỷ yên Nhật (2022)[1] |
871,2 tỷ yên Nhật (2022)[1] | |
707,0 nghìn tỷ yên Nhật (2022)[1] | |
Tổng tài sản | 23,97 nghìn tỷ yên Nhật (2022)[1] |
Tổng vốn chủ sở hữu | 10,77 nghìn tỷ yên Nhật (2022)[1] |
Chủ sở hữu |
|
Số nhân viên | |
Chi nhánh |
|
Công ty con | Danh sách
|
Website | global |
Honda Motor Co., Ltd.[3] (Nhật: 本田技研工業株式会社 Hepburn: Honda Giken Kōgyō KK , IPA: [honda] ⓘ; /ˈhɒndə/; thường được gọi đơn giản là Honda) là một tập đoàn đa quốc gia đại chúng về lĩnh vực xe máy và thiết bị điện, có trụ sở tại Minato, Tokyo, Nhật Bản.
Honda là nhà sản xuất xe máy lớn nhất thế giới kể từ năm 1959,[4][5] đạt sản lượng 400 triệu vào cuối năm 2019,[6] cũng như là nhà sản xuất động cơ đốt trong lớn nhất thế giới tính theo khối lượng, sản xuất hơn 14 triệu động cơ đốt trong mỗi năm.[7] Honda trở thành nhà sản xuất ô tô lớn thứ hai của Nhật Bản vào năm 2001.[8][9] Năm 2015, Honda là nhà sản xuất ô tô lớn thứ tám trên thế giới.[10]
Năm 1986, Honda là nhà sản xuất ô tô đầu tiên của Nhật Bản tung ra nhãn hiệu xe sang chuyên dụng Acura. Ngoài mảng kinh doanh cốt lõi là ô tô và xe máy, Honda còn sản xuất thiết bị làm vườn, động cơ hàng hải, tàu thủy cá nhân, máy phát điện và các sản phẩm khác. Từ năm 1986, Honda tham gia nghiên cứu trí tuệ nhân tạo/người máy và cho ra mắt người máy ASIMO vào năm 2000. Họ cũng mạo hiểm đầu tư vào lĩnh vực hàng không vũ trụ với việc thành lập GE Honda Aero Engines vào năm 2004 và Honda HA-420 HondaJet, bắt đầu sản xuất từ năm 2012. Honda có hai liên doanh tại Trung Quốc: Dongfeng Honda và Guangqi Honda.
Trong năm 2013, Honda đã đầu tư khoảng 5,7% (6,8 tỷ USD) doanh thu vào việc nghiên cứu và phát triển.[11] Cũng trong năm 2013, Honda trở thành nhà sản xuất ô tô Nhật Bản đầu tiên trở thành nhà xuất khẩu ròng từ Hoa Kỳ, xuất khẩu 108.705 mẫu xe Honda và Acura, trong khi chỉ nhập khẩu 88.357.[12]
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]Trong suốt cuộc đời của người sáng lập Honda là Honda Soichiro, ông luôn có mối quan tâm đăc biệt với ô tô. Ông từng làm thợ cơ khí tại ga ra Art Shokai, tại đây, ông có nhiệm vụ điều chỉnh ô tô và tham gia các cuộc đua. Năm 1937, với sự tài trợ từ người quen là Shichirō Kato, Honda thành lập Tōkai Seiki (Công ty máy chính xác Biển Đông) để chế tạo vòng piston hoạt động từ Art Shokai.[13] Sau những thất bại ban đầu, Tōkai Seiki đã giành được hợp đồng cung cấp vòng pít-tông cho Toyota, nhưng bị mất hợp đồng do chất lượng sản phẩm kém.[13] Sau khi theo học trường kỹ thuật mà không có bằng tốt nghiệp và tham quan các nhà máy trên khắp Nhật Bản để hiểu rõ hơn về quy trình kiểm soát chất lượng của Toyota được gọi là "Five whys", đến năm 1941, Honda đã có thể sản xuất hàng loạt vòng piston được Toyota chấp nhận, áp dụng quy trình tự động mà ngay cả những người không có kỹ năng cũng có thể sử dụng.[13][14]:16–19
Tōkai Seiki chịu sự kiểm soát của Bộ Thương mại và Công nghiệp (gọi là Bộ đạn dược sau năm 1943) khi bắt đầu Thế chiến II, và Honda Soichiro đã bị giáng chức từ chủ tịch xuống giám đốc điều hành cấp cao sau khi Toyota mua 40% cổ phần của công ty.[13] Honda cũng hỗ trợ nỗ lực chiến tranh bằng cách hỗ trợ các công ty khác tự động hóa sản xuất cánh quạt máy bay quân sự.[13] Mối quan hệ mà Honda vun đắp với các nhân viên tại Toyota, Công ty máy bay Nakajima và Hải quân Đế quốc Nhật Bản sẽ là công cụ trong thời kỳ hậu chiến.[13] Một cuộc tấn công bằng máy bay ném bom B-29 của Hoa Kỳ đã phá hủy nhà máy Yamashita của Tōkai Seiki vào năm 1944, và nhà máy Itawa sụp đổ vào ngày 13 tháng 1 năm 1945 sau trận động đất Mikawa. Honda Soichiro đã bán những gì còn lại có thể cứu vãn được của công ty cho Toyota sau chiến tranh với giá 450.000 Yên và sử dụng số tiền thu được để thành lập Viện Nghiên cứu Kỹ thuật Honda vào tháng 10 năm 1946.[13][15]
Chiếc mô tô hoàn chỉnh đầu tiên có cả khung và động cơ do Honda sản xuất là D-Type năm 1949, chiếc Honda đầu tiên có tên là Dream.[15][16] Năm 1961, Honda giành chức vô địch Grand Prix đầu tiên và Giải vô địch thế giới ở hạng mục 125cc và 250cc.[17][18] Ô tô đầu tiên của Honda sản xuất là xe bán tải mini T360, bán vào tháng 8 năm 1963.[19] Xe có trang bị động cơ xăng 4 xi-lanh thẳng hàng 356 cc nhỏ, nó được xếp vào khung thuế xe Kei rẻ hơn.[20] Chiếc xe thứ hai của Honda là xe thể thao S500, sau khi chiếc T360 được đưa vào sản xuất vào tháng 10 năm 1963. Bánh sau truyền động bằng xích hướng về nguồn gốc xe máy của Honda.[21]
Ngày 23 tháng 2 năm 2015, Honda thông báo Giám đốc điều hành và Chủ tịch Ito Takanobu sẽ từ chức và Hachigo Takahiro sẽ là người thay thế vào tháng 6 cùng năm.[22]
Tháng 10 năm 2019, Honda được cho là đang đàm phán với Hitachi để hợp nhất mảng kinh doanh phụ tùng ô tô của hai công ty, tạo ra một nhà cung cấp linh kiện với doanh thu hàng năm gần 17 tỷ USD.[23]
Tháng 1 năm 2020, Honda thông báo rút nhân viên làm việc tại thành phố Vũ Hán, Hồ Bắc, Trung Quốc do đại dịch COVID-19.[24] Ngày 23 tháng 3 năm 2020, do sự lây lan của vi-rút trên toàn cầu, Honda đã trở thành nhà sản xuất ô tô lớn đầu tiên có hoạt động tại Hoa Kỳ tạm dừng sản xuất tại các nhà máy. Công ty tiếp tục sản xuất ô tô, động cơ và hộp số tại các nhà máy ở Hoa Kỳ vào ngày 11 tháng 5 năm 2020.[25]
Tháng 9 năm 2020, Honda và General Motors công bố liên minh Bắc Mỹ bắt đầu vào năm 2021.[26] Theo The Detroit Free Press, "Liên minh sẽ bao gồm việc chia sẻ nhiều loại phương tiện, được bán dưới các nhãn hiệu riêng biệt của mỗi công ty, cũng như hợp tác mua bán, nghiên cứu và phát triển các dịch vụ kết nối."[27]
Tháng 3 năm 2022, Honda thông báo phát triển và chế tạo xe điện trong một liên doanh với Sony. Honda chịu trách nhiệm về các quy trình sản xuất xe hơi. Liên doanh ra mắt vào cuối năm 2022 với việc phát hành những chiếc xe đầu tiên vào năm 2025.[28]
Lãnh đạo cấp cao
[sửa | sửa mã nguồn]- Chủ tịch Hội đồng quản trị: Mikoshiba Toshiaki (từ tháng 4 năm 2019)[29]
- Chủ tịch và Giám đốc điều hành: Mibe Toshihiro (từ tháng 4 năm 2021)[29]
Hồ sơ công ty và các bộ phận
[sửa | sửa mã nguồn]Honda có trụ sở chính tại Minato, Tokyo, Nhật Bản. Cổ phiếu giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán Tōkyō và Sở giao dịch chứng khoán New York, cũng như các sàn giao dịch ở Osaka, Nagoya, Sapporo, Kyoto, Fukuoka, London, Paris và Thụy Sĩ.
Công ty có các nhà máy lắp ráp trên toàn cầu. Các nhà máy này được đặt tại Trung Quốc, Hoa Kỳ, Pakistan, Canada, Anh, Nhật Bản, Bỉ, Brazil, México, New Zealand, Malaysia, Indonesia, Ấn Độ, Philippines, Thái Lan, Việt Nam, Thổ Nhĩ Kỳ, Đài Loan, Perú và Argentina. Tính đến tháng 7 năm 2010, 89% xe Honda và Acura bán tại Hoa Kỳ được sản xuất tại các nhà máy ở Bắc Mỹ, tăng từ 82,2% một năm trước đó. Điều này bảo vệ lợi nhuận từ việc đồng yên tăng lên mức cao nhất trong 15 năm so với đồng đô la.[30]
Đối với năm tài chính 2018, Honda đã báo cáo thu nhập là 9,534 tỷ đô la Mỹ, với doanh thu hàng năm là 138,250 tỷ đô la Mỹ, tăng 6,2% so với chu kỳ tài chính trước đó. Cổ phiếu của Honda được giao dịch ở mức hơn 32 USD/cổ phiếu và vốn hóa thị trường của nó được định giá 50,4 tỷ USD vào tháng 10 năm 2018.[31]
Năm | Doanh thu tính bằng triệu Đô la Mỹ$ |
Thu nhập ròng tính bằng triệu Đô la Mỹ$ |
Tổng tài sản tính bằng triệu Đô la Mỹ$ |
Người lao động |
---|---|---|---|---|
2005 | 77,851 | 4,376 | 83,853 | — |
2006 | 89,172 | 5,373 | 95,145 | — |
2007 | 99,784 | 5,331 | 108,329 | 167,231 |
2008 | 108,026 | 5,400 | 113,540 | 178,960 |
2009 | 100,112 | 1,370 | 118,189 | 181,876 |
2010 | 92,655 | 3,052 | 125,594 | 176,815 |
2011 | 107,242 | 6,762 | 138,851 | 179,060 |
2012 | 100,941 | 2,820 | 149,616 | 187,094 |
2013 | 119,523 | 4,443 | 164,988 | 190,338 |
2014 | 118,425 | 5,741 | 156,220 | 198,368 |
2015 | 121,286 | 4,636 | 167,675 | 204,730 |
2016 | 121,190 | 2,860 | 151,303 | 208,399 |
2017 | 130,193 | 5,734 | 176,311 | 211,915 |
2018 | 138,250 | 9,534 | 174,143 | 215,638 |
Doanh thu thuần và doanh thu hoạt động khác của Honda theo khu vực địa lý năm 2007[32]
Khu vực địa lý | Tổng doanh thu (tính bằng triệu ¥) |
---|---|
Nhật Bản | 1.681.190 |
Bắc Mỹ | 5.980.876 |
Châu Âu | 1.236.757 |
Châu Á | 1.283.154 |
Khác | 905,163 |
Hoạt động xã hội
[sửa | sửa mã nguồn]Honda Y-E-S và Honda Award
[sửa | sửa mã nguồn]Giải thưởng Honda Y-E-S (Young Engineer and Scientist) và Honda Award được triển khai với sự hợp tác của Quỹ Honda Foundation (Nhật Bản), Công ty Honda Việt Nam, Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ (NISTPASS) - Bộ Khoa học Công nghệ và các trường đại học liên kết.[33] Giải thưởng nhằm tìm kiếm và phát triển những tài năng trẻ trong lĩnh vực công nghệ sinh thái để trở thành nhà lãnh đạo tiềm năng trong tương lai,cống hiến cho sự phát triển của nền khoa học công nghệ tại các nước đang phát triển.[33]
Tôi Yêu Việt Nam
[sửa | sửa mã nguồn]Khởi đầu là chương trình tuyên truyền, hướng dẫn và giáo dục về An toàn giao thông do Công ty Honda Việt Nam phối hợp với Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Cục Cảnh sát Giao thông – Bộ Công an, được triển khai từ năm 2004.[34]
Năm 2020, "Tôi Yêu Việt Nam" trở lại với phiên bản hoàn toàn mới "Vui giao thông", tập trung vào lứa tuổi Mầm non.[34]
Ngoài ra, Honda Việt Nam còn phối hợp với Bộ Giáo dục & Đào tạo từng bước mở rộng triển khai trên toàn quốc chương trình đào tạo trực tiếp tại các trường mầm non với rất nhiều tài liệu đào tạo phong phú được thể hiện một cách sinh động, vui nhộn như truyện tranh, sách tô màu, mô hình giao thông, bộ nhập vai giao thông.[34]
Sản phẩm
[sửa | sửa mã nguồn]Ô tô
[sửa | sửa mã nguồn]Năm trong số mười chiếc ô tô tiết kiệm nhiên liệu nhất của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ từ năm 1984 đến năm 2010 đều là của Honda, nhiều hơn bất kỳ nhà sản xuất ô tô nào khác. Năm mẫu xe là: 2000–2006 Honda Insight (53 mpg‑Mỹ hay 4,4 L/100 km hay 64 mpg‑Anh kết hợp), 1986–1987 Honda Civic Coupe HF (46 mpg‑Mỹ hay 5,1 L/100 km hay 55 mpg‑Anh kết hợp), 1994–1995 Honda Civic hatchback VX (43 mpg‑Mỹ hay 5,5 L/100 km hay 52 mpg‑Anh kết hợp), 2006– Honda Civic Hybrid (42 mpg‑Mỹ hay 5,6 L/100 km hay 50 mpg‑Anh kết hợp) và 2010– Honda Insight (41 mpg‑Mỹ hay 5,7 L/100 km hay 49 mpg‑Anh kết hợp).[35] ACEEE cũng đã đánh giá Civic GX là chiếc xe thân thiện với môi trường nhất tại Hoa Kỳ trong bảy năm liên tiếp.[36]
Honda hiện đang sản xuất xe tại các nhà máy ở Nhật Bản, Hoa Kỳ, Canada, Trung Quốc, Pakistan, Anh, Bỉ, Brazil, Indonesia, Ấn Độ, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Argentina, Mexico, Đài Loan và Philippines.
Xe máy
[sửa | sửa mã nguồn]Honda là nhà sản xuất xe máy lớn nhất Nhật Bản kể từ khi bắt đầu sản xuất năm 1955.[13]
Vào thời kỳ đỉnh cao năm 1982, Honda sản xuất gần ba triệu xe máy mỗi năm. Đến năm 2006, con số này giảm xuống còn khoảng 550.000 nhưng vẫn cao hơn ba đối thủ cạnh tranh trong nước.[13]
ATV
[sửa | sửa mã nguồn]Honda chế tạo những chiếc ATV tiện ích dưới các mẫu Recon, Rubicon, Rancher, Foreman và Rincon. Honda cũng chế tạo những chiếc ATV thể thao theo các mẫu TRX 90X, TRX 250X, TRX 400x, TRX 450R và TRX 700.[37]
Thiết bị điện
[sửa | sửa mã nguồn]Thiết bị điện Honda bao gồm:
- Động cơ
- Máy cắt bụi cỏ
- Máy cày
- Động cơ gắn ngoài hàng hải
- Máy bơm nước
- Máy xới
- Máy cắt cỏ
- Máy cắt cỏ robot
- Xe cắt cỏ
- Máy xén dây
- Máy thổi lá
- Máy phun
- Máy xén hàng rào
- Máy ném tuyết
- Máy phát điện
- Máy bơm
- Động cơ gắn ngoài
- Thuyền có thể bơm phồng lên
- Xe điện
- Đơn vị đồng phát hộ gia đình nhỏ gọn
Động cơ
[sửa | sửa mã nguồn]Động cơ Honda cung cấp năng lượng cho toàn bộ 33 ô tô xuất phát trong 2010 Indianapolis 500[38] và trong cuộc đua thứ năm liên tiếp, không có sự cố ngừng hoạt động nào liên quan đến động cơ trong quá trình chạy Memorial Day Classic.[39]
Robot
[sửa | sửa mã nguồn]ASIMO là một phần của chương trình Nghiên cứu & Phát triển người máy của Honda. Đây là cái thứ mười một trong dòng các bản dựng liên tiếp bắt đầu từ năm 1986 với Honda E0 di chuyển qua dòng Honda E tiếp theo và dòng Honda P. ASIMO nặng 54 kg và cao 130 cm, có bề ngoài giống như một phi hành gia nhỏ đeo ba lô và có thể đi bằng hai chân theo cách giống như con người di chuyển, tốc độ tối đa 6 km/h (3,7 mph). ASIMO là robot hình người duy nhất trên thế giới có thể lên xuống cầu thang một cách độc lập.[40] Tuy nhiên, các chuyển động của con người như leo cầu thang rất khó bắt chước bằng máy, bằng chứng là ASIMO đã hai lần lao xuống khỏi cầu thang.
Máy bay
[sửa | sửa mã nguồn]Honda cũng đi tiên phong trong công nghệ HA-420 HondaJet mới, do công ty con Honda Aircraft Company sản xuất, ccho phép giảm lực cản ở mức độ mới, tăng tính khí động học và tiết kiệm nhiên liệu nhằm giảm chi phí vận hành.[41]
Xe đạp địa hình
[sửa | sửa mã nguồn]Honda cũng đã chế tạo một chiếc xe đạp đua đổ đèo gọi là Honda RN-01 nhưng không bán ra. Xe đạp có hộp số, thay thế cho derailleur tiêu chuẩn như các xe đạp thông thường.
Honda đã thuê một số người lái chiếc xe này, trong số đó có Greg Minnaar, Đội G Cross Honda.
Sản phẩm trước đây
[sửa | sửa mã nguồn]Lõi pin mặt trời
[sửa | sửa mã nguồn]Công ty con về pin mặt trời của Honda gọi là Honda Soltec (Trụ sở chính: Kikuchi-gun, Kumamoto; Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành: Kazusa Akio) bắt đầu bán pin mặt trời màng mỏng trên khắp Nhật Bản cho mục đích sử dụng công cộng và công nghiệp vào ngày 24 tháng 10 năm 2008, sau khi bán pin mặt trời dùng cho dân dụng vào tháng 10 năm 2007.[42] Cuối tháng 10 năm 2013, Honda Soltec thông báo giải thể và ngừng hoạt động kinh doanh vào mùa xuân năm 2014, chỉ còn hỗ trợ khách hàng hiện tại.[43]
Mô tô thể thao
[sửa | sửa mã nguồn]Honda hoạt động rất tích cực trong lĩnh vực đua xe thể thao, như Công thức 1, MotoGP và những môn khác.
Ô tô
[sửa | sửa mã nguồn]Honda tham gia Công thức 1 lần đầu tiên trong 1964, chỉ một năm sau khi bắt đầu sản xuất ô tô đường trường, sản xuất cả động cơ và khung gầm. Honda đã giành được chiến thắng đầu tiên tại Grand Prix Mexico 1965, và một chiến thắng khác tại Grand Prix Ý 1967, trước khi rút lui sau mùa giải 1968. Họ trở lại với môn thể thao này năm 1983 với tư cách là nhà sản xuất động cơ, tiếp tục cho đến 1992. Giai đoạn này chứng kiến Honda thống trị giải đua Grand Prix,[44] giữa 1986 và 1991, họ đã giành được năm chức vô địch liên tiếp với tay đua Nelson Piquet, Ayrton Senna và Alain Prost, và sáu danh hiệu Nhà xây dựng với Williams và McLaren.[45] Giai đoạn thứ ba từ 2000 đến 2008, ban đầu với tư cách là nhà sản xuất động cơ và sau đó cũng là chủ sở hữu đội, đã giành được 17 bục nhận giải, trong đó có một chiến thắng và vị trí thứ hai năm 2004 trong bảng xếp hạng của các nhà xây dựng. Họ trở lại với tư cách là nhà cung cấp thiết bị năng lượng cho năm thứ hai của kỷ nguyên hybrid 2015, dù ban đầu gặp khó khăn, nhưng sự phát triển mạnh mẽ đã giúp họ một lần nữa chiến thắng cuộc đua năm 2019, và trong 2021 họ đã giành chức vô địch thế giới với tay đua Max Verstappen và Red Bull Racing.[46] Honda chính thức ngừng cung cấp động cơ Công thức 1 sau năm 2021 để tập trung nguồn lực vào các công nghệ carbon trung tính, nhưng vẫn mở rộng hỗ trợ đơn vị năng lượng cho Red Bull Powertrains (RBPT) cho đến năm 2025.[47][48]
Xe máy
[sửa | sửa mã nguồn]Honda Racing Corporation (HRC) thành lập năm 1982. Công ty kết hợp việc tham gia các cuộc đua mô tô trên khắp thế giới với việc phát triển các cỗ máy đua có tiềm năng cao. Các hoạt động đua xe là một nguồn quan trọng để có thể tạo ra và áp dụng các công nghệ hàng đầu trong quá trình phát triển xe máy Honda. HRC cũng đóng góp vào sự phát triển của môn thể thao mô tô thông qua một loạt các hoạt động bao gồm bán mô tô đua sản xuất, hỗ trợ các đội vệ tinh và các chương trình giáo dục người lái.
Trong Giải vô địch mô tô thế giới, Honda đã giành sáu chức vô địch thế giới. Trong Giải vô địch Enduro thế giới, Honda giành tám danh hiệu, gần đây nhất là với Stefan Merriman vào năm 2003 và Mika Ahola từ năm 2007 đến 2010. Trong mô tô địa hình, Honda giành ba chức vô địch thế giới với tay đua người Bỉ Eddy Lejeune.
Xe điện và xe sử dụng nhiên liệu thay thế
[sửa | sửa mã nguồn]Khí tự nhiên nén
[sửa | sửa mã nguồn]Honda Civic GX trong thời gian dài là chiếc xe chạy bằng khí tự nhiên (NGV) được sản xuất riêng duy nhất có sẵn thương mại ở một số khu vực của Mỹ.[49] Honda Civic GX đầu tiên xuất hiện vào năm 1998 dưới dạng Civic LX được sửa đổi từ nhà máy để chạy hoàn toàn bằng khí tự nhiên nén. Xe có vẻ ngoài và lái giống như một chiếc Honda Civic LX đương đại, nhưng không chạy bằng xăng. Năm 2001, Civic GX được đánh giá là động cơ đốt trong sạch nhất trên thế giới bởi Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA).[50][51]
Lần đầu tiên được cho thuê cho Thành phố Los Angeles, vào năm 2005, Honda bắt đầu cung cấp GX trực tiếp cho công chúng thông qua các đại lý được đào tạo từ nhà máy và được chứng nhận để phục vụ GX. Trước đó, chỉ có các đội xe mới đủ điều kiện mua một chiếc Civic GX mới. Năm 2006, Civic GX được phát hành tại New York, trở thành bang thứ hai nơi người tiêu dùng có thể mua xe.[52]
Vào tháng 6 năm 2015, Honda thông báo quyết định dừng việc thương mại hóa các xe chạy bằng khí tự nhiên để tập trung vào việc phát triển thế hệ mới của các xe điện tử như xe hỗn hợp, xe cắm điện và xe chạy bằng hydro xe hạt nhân nhiên liệu. Kể từ năm 2008, Honda đã bán khoảng 16.000 xe chạy bằng khí tự nhiên, chủ yếu là xe taxi và đội xe thương mại.[53]
Xe chạy nhiều loại nhiên liệu
[sửa | sửa mã nguồn]Công ty con của Honda tại Brazil đã ra mắt các phiên bản flex-fuel cho Honda Civic và Honda Fit vào cuối năm 2006. Giống như các phương tiện chạy flex-fuel khác ở Brazil, các mẫu này hoạt động trên bất kỳ hỗn hợp nào của ethanol hydrous (E100) và xăng E20-E25.[54][55] Ban đầu, để thử nghiệm thị trường, nhà sản xuất quyết định sản xuất một tỷ lệ nhỏ các phương tiện với động cơ flex-fuel, chiếm 33% sản lượng Civic và 28% các mẫu Fit.[54][55] Ngoài ra, giá bán của phiên bản flex-fuel cao hơn phiên bản chạy xăng tương ứng, khoảng 1.000 đô la Mỹ cho Civic, và 650 đô la Mỹ cho Fit, mặc dù tất cả các phương tiện chạy flex-fuel khác bán ở Brazil đều có mức giá như phiên bản chạy xăng của chúng.[55][56][57] Vào tháng 7 năm 2009, Honda đã ra mắt trên thị trường Brazil chiếc xe chạy flex-fuel thứ ba của họ, Honda City.[58]
Trong hai tháng cuối năm 2006, cả hai mẫu xe sử dụng nhiên liệu linh hoạt đã bán được 2.427 xe so với 8.546 xe sử dụng xăng[59], tăng lên 41.990 xe nhiên liệu linh hoạt vào năm 2007[60] và đạt 93.361 xe vào năm 2008.[61] Do thành công của các phiên bản sử dụng nhiên liệu linh hoạt, vào đầu năm 2009, toàn bộ sản xuất ô tô của Honda cho thị trường Brazil hiện đã sử dụng nhiên liệu linh hoạt, và chỉ có một tỷ lệ nhỏ phiên bản xăng được sản xuất tại Brazil để xuất khẩu.[62]
Vào tháng 3 năm 2009, Honda đã ra mắt tại thị trường Brazil chiếc xe máy sử dụng nhiên liệu linh hoạt đầu tiên trên thế giới. Sản xuất bởi công ty con Moto Honda da Amazônia của hãng, mẫu CG 150 Titan Mix có giá bán khoảng 2.700 đô Mỹ.[63][64][65]
Xe hơi hybrid
[sửa | sửa mã nguồn]Vào cuối năm 1999, Honda đã ra mắt mẫu xe hơi hybrid điện đầu tiên được bán trên thị trường Mỹ, đó là Honda Insight, chỉ cách đây một tháng so với việc giới thiệu Toyota Prius, và ban đầu được bán với giá 20.000 USD.[66][67] Honda Insight thế hệ đầu tiên được sản xuất từ năm 2000 đến năm 2006 và đạt mức tiêu thụ nhiên liệu 70 dặm trên galông Mỹ (3,4 L/100 km; 84 mpg‑Anh) cho đánh giá tốc độ cao trên đường cao tốc của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA), là chiếc xe tiêu thụ nhiên liệu hiệu suất cao nhất được sản xuất hàng loạt vào thời điểm đó.[66][67] Tổng doanh số bán toàn cầu của Insight chỉ đạt khoảng 18.000 xe.[67] Tính đến năm 2005, tổng doanh số bán toàn cầu đạt 100.000 xe hybrid, và năm 2007 là 200.000 xe.[68]
Honda giới thiệu mẫu Insight thế hệ thứ hai tại Nhật Bản vào tháng 2 năm 2009 và phát hành nó trên các thị trường khác vào năm 2009 và tại thị trường Mỹ vào tháng 4 năm 2009. Với giá 19.800 USD dành cho phiên bản hatchback 5 cửa, nó đã trở thành mẫu hybrid rẻ nhất có sẵn trên thị trường Mỹ.[69]
Kể từ năm 2002, Honda cũng đã bán mẫu Honda Civic Hybrid (mẫu 2003) trên thị trường Mỹ.[66] Sau đó là Honda Accord Hybrid, được bán trong các năm mẫu 2005 đến 2007. Cuối cùng là Honda CR-Z, được bán ra tại Nhật Bản vào tháng 2 năm 2010, trở thành mẫu xe hơi hybrid thứ ba của Honda trên thị trường. Hiện tại, tính đến năm 2011, Honda sản xuất khoảng 200.000 xe hybrid mỗi năm tại Nhật Bản.[70]
Doanh số b��n xe Honda Fit Hybrid bắt đầu tại Nhật Bản vào tháng 10 năm 2010, và lúc đó, nó là mẫu xe hybrid điện-gasoline giá rẻ nhất được bán tại đất nước này.[71] Phiên bản dành cho châu Âu, gọi là Honda Jazz Hybrid, được ra mắt vào đầu năm 2011.[72] Trong năm 2011, Honda ra mắt ba mẫu xe hybrid chỉ có sẵn tại thị trường Nhật Bản, đó là Fit Shuttle Hybrid, Freed Hybrid và Freed Spike Hybrid.[68]
Tính đến cuối tháng 9 năm 2012, doanh số bán hàng toàn cầu của Honda vượt qua mốc 1 triệu đơn vị xe hybrid, 12 năm 11 tháng sau khi bắt đầu bán mẫu Insight thế hệ đầu tiên tại Nhật Bản vào tháng 11 năm 1999.[68] Tổng cộng có 187.851 xe hybrid được bán trên toàn cầu trong năm 2013, và 158.696 xe hybrid trong 6 tháng đầu tiên của năm 2014.[73][74] Tính đến năm 2014, Honda đã bán hơn 1,35 triệu xe hybrid trên toàn cầu.[68][73][74]
Tạo điện bằng tế bào nhiên liệu hydro
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 16 tháng 6 năm 2008 tại Takanezawa, Nhật Bản, Honda đã sản xuất chiếc Honda FCX Clarity đầu tiên trên dây chuyền lắp ráp, một loại xe tạo điện bằng tế bào nhiên liệu hydro hybrid. Hiệu suất cao hơn so với một chiếc xe tạo điện bằng tế bào nhiên liệu hydro hỗn hợp, FCX Clarity kết hợp hydro và oxygen từ không khí thông thường để tạo ra điện cho động cơ điện. Vào tháng 7 năm 2014, Honda thông báo dừng sản xuất Honda FCX Clarity từ năm 2015.[75]
Xe này không thải ra bất kỳ chất ô nhiễm nào và chỉ tạo ra nhiệt và nước làm sản phẩm phụ. FCX Clarity cũng có lợi thế hơn so với các xe hybrid chạy xăng - điện bởi nó không sử dụng động cơ đốt trong để đẩy xe. Tương tự như các xe hybrid chạy xăng - điện, nó sử dụng một pin lithium ion để hỗ trợ tế bào nhiên liệu trong quá trình tăng tốc và thu thập năng lượng qua cơ chế phanh tái tạo, từ đó nâng cao hiệu quả nhiên liệu. Sự thiếu hụt các trạm nạp hydro trong các nước phát triển sẽ giữ cho sản lượng sản xuất ở mức thấp.[76] Honda sẽ phát hành xe này dưới dạng nhóm 150 chiếc. California là thị trường duy nhất ở Hoa Kỳ có hạ tầng để cung cấp nhiên liệu cho loại xe này, tuy số lượng các trạm cung cấp nhiên liệu này vẫn còn hạn chế. Xây dựng thêm các trạm cung cấp nhiên liệu này đòi hỏi chi phí cao, khi Hội đồng Tài nguyên Khí quyển California (CARB) đã cấp 6,8 triệu USD cho bốn trạm nạp hydro, mỗi trạm tốn khoảng 1,7 triệu USD.[77]
Honda coi xe tạo điện bằng tế bào nhiên liệu hydro là sự thay thế dài hạn cho các xe động cơ piston, không phải xe điện pin.[78]
Xe điện sạc từ ổ cắm
[sửa | sửa mã nguồn]Chiếc xe điện toàn phần Honda EV Plus đã được giới thiệu vào năm 1997 nhằm tuân thủ mệnh lệnh của CARB về các xe không thải ra khí thải và chỉ có thể cho thuê tại California. EV Plus là chiếc xe điện toàn phần đầu tiên của một hãng sản xuất ô tô lớn với pin không phải loại chì. EV Plus có phạm vi hoạt động toàn điện 100 mi (160 km). Khoảng 276 chiếc đã được bán tại Mỹ và sản xuất đã kết thúc vào năm 1999.[79][80]
Chiếc xe Honda Fit EV toàn phần được giới thiệu vào năm 2012 và có phạm vi hoạt động 82 mi (132 km).[81] Xe điện toàn phần này đã được phát hành cho khách hàng bán lẻ tại Hoa Kỳ vào tháng 7 năm 2012, nhưng lượng xe ban đầu chỉ có sẵn ở California và Oregon.[82] Sản xuất giới hạn chỉ 1.100 chiếc trong 3 năm đầu tiên. Tính đến tháng 9 năm 2014, tổng cộng đã cho thuê 1.007 chiếc tại Hoa Kỳ.[83][84][85][86] Fit EV đã được phát hành tại Nhật Bản thông qua việc cho thuê cho chính phủ địa phương và các khách hàng doanh nghiệp vào tháng 8 năm 2012. Hiện chỉ có 200 chiếc được cung cấp trên thị trường Nhật Bản trong hai năm đầu tiên.[87] Vào tháng 7 năm 2014, Honda thông báo dừng sản xuất Fit EV từ năm 2015.[75]
Honda Accord Plug-in Hybrid được giới thiệu vào năm 2013 và có phạm vi hoạt động toàn điện 13 mi (21 km).[88] Doanh số bán ra đã bắt đầu từ tháng 1 năm 2013 tại Hoa Kỳ và loại xe hybrid plug-in chỉ có sẵn ở California và New York.[89] Tính đến tháng 9 năm 2014, tổng cộng đã bán ra 835 chiếc tại Hoa Kỳ.[83][85][86] Accord PHEV đã được giới thiệu tại Nhật Bản vào tháng 6 năm 2013 và chỉ có sẵn cho thuê, chủ yếu dành cho các công ty và cơ quan chính phủ.[90]
Dự kiến Honda Prologue sẽ được giới thiệu vào năm 2024 như một chiếc SUV crossover điện trung bình dựa trên nền tảng Ultium của General Motors.[91]
Pin
[sửa | sửa mã nguồn]Vào tháng 8 năm 2022, Honda và LG Energy Solution thông báo hợp tác thành lập một liên doanh nhằm xây dựng một nhà máy pin lithium-ion mới tại Mỹ để cung cấp cho các xe điện Honda và Acura. Lúc đó, mục tiêu sản xuất là 40 gigawatt giờ.[92]
Tiếp thị
[sửa | sửa mã nguồn]Tại Nhật Bản
[sửa | sửa mã nguồn]Bắt đầu từ năm 1978, Honda Nhật Bản quyết định đa dạng hóa các kênh phân phối bán hàng và tạo ra Honda Verno, bán các sản phẩm đã có tên tuổi với hàm lượng thiết bị tiêu chuẩn cao hơn và mang tính chất thể thao hơn.[93][94] Việc thành lập Honda Verno trùng hợp với mẫu xe thể thao nhỏ gọn mới của hãng là Honda Prelude. Sau đó, Honda Vigor, Honda Ballade và Honda Quint đã được thêm vào các cửa hàng Honda Verno. Cách tiếp cận này là nhờ nỗ lực của các nhà sản xuất ô tô đối thủ Nhật Bản Toyota và Nissan.
Tiếp thị quốc tế
[sửa | sửa mã nguồn]Cuối năm 2006, Honda phát hành quảng cáo robot ASIMO khám phá một bảo tàng, nhìn vào các vật trưng bày với vẻ ngạc nhiên gần như trẻ con (dang hai tay ra trong phòng trưng bày hàng không vũ trụ, vẫy chào bộ đồ phi hành gia, v.v.), trong khi Garrison Keillor ngẫm nghĩ về tiến độ. Nó kết thúc với khẩu hiệu: "Làm ơn tiến tới nhiều hơn". Honda cũng tài trợ cho ITV's phủ sóng Công thức 1 tại Anh năm 2007. Tuy nhiên, họ thông báo sẽ không tiếp tục vào năm 2008 do giá tài trợ mà ITV yêu cầu quá cao.
Tại thị trường Bắc Mỹ, Honda bắt đầu tất cả các quảng cáo bằng tiếng leng keng hai tông kể từ giữa thập niên 2010.
Tại Việt Nam, Honda thường lồng ghép các hoạt động tuyên truyền, giáo dục an toàn giao thông vào quảng cáo.
Số lượng sản xuất
[sửa | sửa mã nguồn]Năm lịch | Sản xuất toàn cầu |
---|---|
2009 | 3,012,000[95] |
2010 | 3,643,000[95] |
2011 | 2,909,000[96] |
2012 | 4,110,000[96] |
2013 | 4,112,000[97] |
2014 | 4,513,769[98] |
2015 | 4,543,838[99] |
2016 | 4,999,266[100] |
2017 | 5,236,842[101] |
2018 | 5,357,013[102] |
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c d e “2022 Fiscal Year Consolidated Financial Results” (PDF). Honda IR (bằng tiếng Anh). ngày 13 tháng 5 năm 2022. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2022.
- ^ “2022 Financial Results (Form 20-F)” (PDF). Honda IR (bằng tiếng Anh). ngày 22 tháng 6 năm 2022. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2022.
- ^ “FY2022 Form 20-F” (PDF). Honda Motor Co., Ltd. 22 tháng 6 năm 2022. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2022.
- ^ Grant, Robert M.; Neupert, Kent E. (2003). Cases in contemporary strategy analysis (ấn bản thứ 3). Wiley-Blackwell. ISBN 1-4051-1180-1.
- ^ Johnson, Richard Alan (2005). Six men who built the modern auto industry. MotorBooks International. tr. 52. ISBN 0-7603-1958-8.
- ^ “Honda is celebrating the production of 400 million motorcycles”. hondanews.eu. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2020.
- ^ Miller, Edward (ngày 18 tháng 4 năm 2008). “FIRST MOTORCYCLE AIRBAG EARNS TAKATA AND HONDA 2008 AUTOMOTIVE NEWS PACE INNOVATION PARTNERSHIP AWARD”. Honda.com. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2009.
- ^ “Harga Honda Mobilio”. Mobilio. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2009.
- ^ “The History of Honda”. Cars-directory.net. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2009.
- ^ “World motor vehicle production OICA correspondents survey without double counts world ranking of manufacturers year 2011” (PDF). Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2020.
- ^ Le top 20 des entreprises les plus innovantes du monde, Challenges, ngày 22 tháng 10 năm 2013
- ^ Ross, Jeffrey N. (ngày 29 tháng 1 năm 2014). “Honda is first Japanese carmaker to be a net-exporter from US”. autoblog. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2014.
- ^ a b c d e f g h i Alexander, Jeffrey W. (2008), Japan's Motorcycle Wars: An Industry History, UBC Press, tr. 112–116, 197–211, ISBN 978-0-8248-3328-2
- ^ Frank, Aaron (2003). Honda Motorcycles. MotorBooks International. ISBN 978-0-7603-1077-9. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2012.
- ^ a b Falloon, Ian (2005), The Honda Story, Haynes, tr. 9–13, ISBN 1-85960-966-X
- ^ “1951 Honda Dream Type D”. americanmotorcyclist.com. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2017.
- ^ “HONDA'S FIRST GOLDEN DECADE AT THE GRAND PRIX • Total Motorcycle”. Total Motorcycle (bằng tiếng Anh). ngày 9 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2020.
- ^ “Honda History”. bdhonda.com (bằng tiếng Anh). aamra infotainment limited. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2022.
Honda Motor Company grew in a short time to become the world's largest manufacturer of motorcycles by 1964.
- ^ “Honda Worldwide, History”. World.honda.com. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2011.
- ^ Paul Niedermeyer (ngày 30 tháng 3 năm 2010). “Honda's Wild 9000 RPM Mid-Engine T360 Pickup Of 1963”. The Truth about Cars.
- ^ “Sporting Hondas – Classic Buyer's Guide”. New Zealand Classic Car magazine. ngày 21 tháng 9 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2011.
- ^ “Honda Names Takahiro Hachigo New President; Replaces Takanobu Ito, who took over as chief executive in 2009”. Wall Street Journal. ngày 23 tháng 2 năm 2015.
- ^ News, Bloomberg (ngày 29 tháng 10 năm 2019). “Honda and Hitachi to Merge Four Car Parts Makers, Yomiuri Says – BNN Bloomberg”. BNN.
- ^ Wayland, Michael (ngày 27 tháng 1 năm 2020). “Coronavirus prompts automakers to evacuate workers, weigh production delays at Chinese factories”. CNBC (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2020.
- ^ DePompei, Elizabeth. “Honda to start resuming production at U.S. plants Monday”. IndyStar.com. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2020.
- ^ Whiston, David (ngày 3 tháng 9 năm 2020). “GM-Honda North American Alliance May Free Up Capital”. Morningstar.com (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2020.
- ^ LaReau, Jamie L. “GM forms alliance with Honda to develop future products in North America”. Detroit Free Press (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2020.
- ^ Etherington, Darrell (ngày 4 tháng 3 năm 2022). “Sony and Honda reveal plans to jointly make and sell electric vehicles”. Tech Crunch (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2022.
- ^ a b “Honda - Executives”.
- ^ Ohnsman, Alan (ngày 20 tháng 8 năm 2010). “Honda's Dream of U.S. Production Protects Profits as Yen Surges”. Bloomberg. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2011.
- ^ “Honda Revenue 2006–2018 | HMC”. www.macrotrends.net. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
- ^ Breakdown of net sales and other operating revenue by geographical markets from company 20Fs
- ^ a b “Honda | Hoạt động xã hội | Giới Thiệu”. www.honda.com.vn. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2023.
- ^ a b c “Honda | Chương trình Tôi yêu Việt Nam”. www.honda.com.vn. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2023.
- ^ “2022 Honda Insight vs. 2023 Tesla Model S - Car Comparison”. Edmunds (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2023.
- ^ “the greenest vehicles of 2008”. greenercars.org. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2011.
- ^ “Honda ATV - Your Complete Guide”. World of ATVs. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2020.
- ^ “Honda Racing Engines”. Racing.honda.com. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Indy 500”. Indianapolis Motor Speedway.
- ^ “Frequently asked questions about ASIMO” (PDF). Honda. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2014.
- ^ “Honda Aircraft Company Receives FAA Production Certificate”. www.hondajet.com. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2018.
- ^ “Honda Soltec Begins Sales of Thin-Film Solar Cells for Public and Industrial Use” (Thông cáo báo chí). World.honda.com. ngày 23 tháng 10 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2012.
- ^ “Honda to Discontinue Operations of Honda Soltec, a Photovoltaic Subsidiary” (Thông cáo báo chí). World.honda.com. ngày 30 tháng 10 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Formula for Success: The Honda RA168E”. Motor Sport Magazine (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2021.
- ^ “Engine Honda • STATS F1”. www.statsf1.com. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2021.
- ^ “Honda Wins F1 Championship in Its Final Season”. nippon.com (bằng tiếng Anh). ngày 13 tháng 12 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2021.
- ^ “Honda and Red Bull extend power unit support deal until 2025 | Formula 1®”. www.formula1.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2022.
- ^ “Honda to leave F1 at the end of 2021 | Formula 1®”. www.formula1.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2021.
- ^ “2009 Honda Civic GX Natural Gas Vehicle”. Honda. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2008.
- ^ "Sixth Biannual Report On The Early Action Compact For Northeast Texas", p.5.
- ^ "Natural Gas Myths" Lưu trữ 29 tháng 9 2011 tại Wayback Machine, Myth 2.
- ^ "Honda Press Release", 19 October 2006
- ^ Boudette, Neal E. (15 tháng 6 năm 2015). “Honda will drop CNG vehicles to focus on hybrids, EVs”. Automotive News. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2016.
- ^ a b Ricardo Ghigonetto (2 tháng 11 năm 2006). “Honda apresenta tecnologia Flex” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Honda (Brazil). Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2009.
- ^ a b c Marcelo Moura (tháng 1 năm 2007). “Testes: Honda Civic EXS Flex x Honda Civic EXS” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Revista Quatro Rodas. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2009.
- ^ Luís Felipe Figueiredo (9 tháng 2 năm 2009). “Honda Fit LXL Flex, um japonês versátil” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). WebMotors. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2009.
- ^ Alberto Polo Junior (12 tháng 12 năm 2006). “Versão Flex do Honda Fit chega na sexta por R$46.340” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Interpress Motor. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2009.
- ^ “Honda starts building flex-fuel City sedan in Brazil”. AutoblogGreen. 29 tháng 7 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2009.[Còn mơ hồ ]
- ^ “Tabela 08 – Vendas Atacado Mercado Interno por Tipo e Empresa – Combustível Flex Fuel – 2006” (PDF) (bằng tiếng Bồ Đào Nha). ANFAVEA – Associação Nacional dos Fabricantes de Veículos Automotores (Brazil). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2009. Xem Bảng 08 cho doanh số bán hàng nhiên liệu linh hoạt và Bảng 07 cho doanh số bán hàng xăng.
- ^ “Tabela 08 – Vendas Atacado Mercado Interno por Tipo e Empresa – Combustível Flex Fuel – 2007” (PDF) (bằng tiếng Bồ Đào Nha). ANFAVEA – Associação Nacional dos Fabricantes de Veículos Automotores (Brazil). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2009. Xem Bảng 08.
- ^ “Tabela 08 – Vendas Atacado Mercado Interno por Tipo e Empresa – Combustível Flex Fuel – 2008” (PDF) (bằng tiếng Bồ Đào Nha). ANFAVEA – Associação Nacional dos Fabricantes de Veículos Automotores (Brazil). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2009. Xem Bảng 08.
- ^ “Autoveículos – Produção em 2009” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). ANFAVEA – Associação Nacional dos Fabricantes de Veículos Automotores (Brazil). Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 8 năm 2006. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2009. Đến tháng 2 năm 2009. Xem "Produção por Tipo, Empresa e Combustível " Bảng 6 (xăng) và 7 (nhiên liệu linh hoạt). Tất cả các phương tiện xăng đều được xuất khẩu (xem Bảng 01 Exportação de Autoveículos por Empresa, Tipo e Modelo – 2009).
- ^ “Honda lança primeira moto bicombustível do mundo” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). G1 Portal de Notícias da Globo. 11 tháng 3 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2003.
- ^ Agencia EFE (11 tháng 3 năm 2003). “Honda lançará moto flex ainda neste mês no Brasil” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Folha Online. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2003.
- ^ “Honda lança no Brasil primeira moto flex do mundo” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). UNICA. 11 tháng 3 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2003.
- ^ a b c Sperling, Daniel and Deborah Gordon (2009). Two billion cars: driving toward sustainability. Oxford University Press, New York. tr. 28, 64–65, and 168–168. ISBN 978-0-19-537664-7.
- ^ a b c Jerry Garrett (27 tháng 8 năm 2006). “The Once and Future Mileage King”. The New York Times.
- ^ a b c d Honda Press Release (15 tháng 10 năm 2012). “Cumulative worldwide sales of Honda hybrids passes 1 million units”. Green Car Congress. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2012.
- ^ “Honda Insight: America's most affordable hybrid at $19,800”. Honda. Motor Authority. 10 tháng 3 năm 2009. Bản gốc lưu trữ 14 Tháng Ba năm 2009. Truy cập 21 Tháng Ba năm 2009.
- ^ Yoshio Takahashi (2 tháng 2 năm 2011). “Honda Exports From Japan Unlikely To Decline Soon”. Dow Jones newswire.[liên kết hỏng]
- ^ Eric Loveday (8 tháng 10 năm 2010). “Honda prices 2011 Fit Hybrid at $19,310; cheapest gas-electric in Japan”. Autoblog Green. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2014.
- ^ Williams, Stephen (25 tháng 8 năm 2010). “Honda Jazz Hybrid Will Get Paris Premiere”. New York Times. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2010.
- ^ a b Roger Schreffler (14 tháng 7 năm 2014). “Toyota Strengthens Grip on Japan EV, Hybrid Market”. Ward's AutoWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2014. Honda đã bán 187.851 xe hybrid trong năm 2013.
- ^ a b Roger Schreffler (20 tháng 8 năm 2014). “Toyota Remains Unchallenged Global Hybrid Leader”. Ward's AutoWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2014. Honda đã bán 158.696 xe hybrid trong 6 tháng đầu năm 2014.
- ^ a b John Voelcker (29 tháng 7 năm 2014). “Honda Ends Three Green Models For 2015: Insight, Fit EV, FCX Clarity”. Green Car Reports. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2014.
- ^ Fackler, Martin (17 tháng 6 năm 2008). “Latest Honda Runs on Hydrogen, Not Petroleum”. The New York Times. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2008.
- ^ Blanco, Sebastian (16 tháng 4 năm 2009). “CARB grants $6.8 million for four hydrogen refueling stations”. Autobloggreen. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2009.[Còn mơ hồ ]
- ^ “Honda says, 'Petrol engines will go extinct, hydrogen is motoring's Holy Grail'”. International Business Times UK. 20 tháng 9 năm 2016.
- ^ Dixon, Lloyd; Isaac Porche; Jonathan Kulick (2002). Driving Emissions to Zero: Are the Benefits of California's Zero Emission Vehicle Program Worth the Costs? (PDF). Rand Corporation. ISBN 0-8330-3212-7. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2010. See Appendix E: Table E.1, pp. 124
- ^ Sherry Boschert (2006). Plug-in Hybrids: The Cars that will Recharge America. New Society Publishers, Gabriola Island, Canada. ISBN 978-0-86571-571-4.
- ^ Honda Media Room (6 tháng 6 năm 2012). “2013 Honda Fit EV receives EPA fuel economy rating of 118 MPGe; highest yet”. Green Car Congress. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2012.
- ^ Zach McDonald (20 tháng 7 năm 2012). “Honda Registers First Fit EV Delivery”. Plugincars.com. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2012.
- ^ a b Jeff Cobb (8 tháng 1 năm 2013). “December 2012 Dashboard”. HybridCars.com and Baum & Associates. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2013. See the section: December 2012 Plug-in Electric Car Sales Numbers
- ^ Takenaka, Kiyoshi (30 November 2022). “Lắp định vị xe máy”. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2023.
- ^ a b Cole, Jay (6 tháng 1 năm 2014). “December 2013 Plug-In Electric Vehicle Sales Report Card”. InsideEvs.com. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2014.
- ^ a b Jay Cole (1 tháng 10 năm 2014). “September 2014 Plug-In Electric Vehicle Sales Report Card”. InsideEVs.com. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2014.
- ^ Honda News (31 tháng 8 năm 2012). “Honda begins lease sales of Fit EV in Japan”. Green Car Congress. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2012.
- ^ Antony Ingram (30 tháng 11 năm 2012). “2014 Honda Accord Plug-In Hybrid Priced Sub-$41K, 115 MPGe”. Green Car Reports. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2012.
- ^ Pete Brissette (21 tháng 1 năm 2013). “2014 Honda Accord Plug-in Hybrid Now Available in Calif. And New York”. HybridCars.com. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2013.
- ^ “Honda introduces Accord hybrid and plug-in in Japan; hybrid in US in October”. Green Car Congress. US. 21 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2014.
- ^ Lambert, Fred (6 tháng 10 năm 2022). “Honda unveils the Prologue, its first electric SUV”. Electrek. US. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2014.
- ^ Manfredi, Lucas (29 tháng 8 năm 2022). “Honda, LG Energy teaming to build $4.4B EV battery plant in US”. FOXBusiness (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2022.
- ^ Honda 国内四輪 新販売チャネル施策と、アキュラブランド導入を発表 Honda公式サイト 2005年12月14日
- ^ Honda|会社案内|会社概要|Hondaのグローバル展開|日本 Honda公式サイト
- ^ a b “2010 Honda SALES & PRODUCTION RESULTS”. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 1 năm 2011.
- ^ a b “2012 Honda SALES & PRODUCTION RESULTS”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2013.
- ^ “2013 Honda SALES & PRODUCTION RESULTS”.
- ^ “Honda Sets All-Time Calendar Year Production Records for Automobile Production, Worldwide, Overseas, in Asia and China for the Year 2014”.
- ^ “Honda Sets All-Time Calendar Year Production Records for Automobile Production, Worldwide, Overseas, in Asia and China for the Year 2015”.
- ^ “Honda Sets All-Time Calendar Year Production Records for Automobile Production, Worldwide, Overseas, in Asia and China for the Year 2016”.
- ^ “Honda Sets All-Time Calendar Year Production Records for Automobile Production, Worldwide, Overseas, in Asia and China for the Year 2017”.
- ^ “Honda Sets All-Time Calendar Year Production Records for Automobile Production, Worldwide, Overseas, in Asia and China for the year 2018”.
Nguồn
[sửa | sửa mã nguồn]- "Move Over, Volvo: Honda Sets New Safety Standard for Itself", một bài báo trong mục "Tin tức" của tạp chí Motor Trend số tháng 3 năm 2004, trên trang 32
- “Annual Reports”. Investor Relations. Honda Motor Co.
- Câu chuyện về sự gia nhập và tăng trưởng của Honda tại thị trường Mỹ được ghi lại trong phim tài liệu The Japan Project: Made in Japan của Terry Sanders. Honda
- Honda's Midlife Crisis: Honda's slipping market position and views of Fukui Takeo (Chief Executive magazine, December 2005 issue)
- Lịch sử Công ty Honda
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Website chính thức
- Dữ liệu doanh nghiệp dành cho Honda: Google Tài chính
- Yahoo! Tài chính
- Bloomberg
- Reuters
- SEC filings
- Website chính thức
- Thư viện Báo chí Honda Lưu trữ 2021-01-16 tại Wayback Machine (Tiếng Nhật, nhưng có dòng thời gian đồ họa của các mẫu ô tô và xe máy)
- Honda Automobiles trên DMOZ
- Honda Motorcycles trên DMOZ
- “Company history books (Shashi)”. Shashi Interest Group. tháng 4 năm 2016. Wiki sưu tập các tác phẩm về Honda
- Công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Tokyo
- Chỉ số TOPIX 100
- Chỉ số Nikkei 225
- Honda
- Công ty đa quốc gia có trụ sở tại Nhật Bản
- Nhà sản xuất động cơ hàng hải
- Nhà sản xuất xe máy
- Nhà sản xuất xe máy Nhật Bản
- Nhà sản xuất xe tải Nhật Bản
- Nhãn hiệu xe hơi
- Nhà sản xuất xe mô tô hạng sang
- Nhà sản xuất động cơ diesel
- Công ty sản xuất máy bay Nhật Bản
- Công ty sản xuất xe hơi Nhật Bản
- Công ty niêm yết tại Thị trường Chứng khoán New York
- Nhãn hiệu Nhật Bản
- Thương hiệu xe hơi hạng sang
- Công ty sản xuất ở Tokyo